Luật An toàn thông tin mạng có 8 chương 54 điều, quy định về hoạt động an toàn thông tin mạng; quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm an toàn thông tin mạng; mật mã dân sự; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thông tin mạng; kinh doanh trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng; phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin mạng; quản lý Nhà nước về an toàn thông tin mạng.
Về nguyên tắc bảo đảm an toàn thông tin mạng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng. Hoạt động an toàn thông tin mạng của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, bí mật Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Luật An toàn thông tin mạng đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10. |
Nhà nước ban hành chính sách về an toàn thông tin mạng qua các nội dung đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật an toàn thông tin mạng đáp ứng yêu cầu ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Nhà nước khuyến khích nghiên cứu, phát triển, áp dụng biện pháp kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ xuất khẩu, mở rộng thị trường cho sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng do tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất, cung cấp; tạo điều kiện nhập khẩu sản phẩm, công nghệ hiện đại mà tổ chức, cá nhân trong nước chưa có năng lực sản xuất, cung cấp.
Đồng thời, Nhà nước bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng; khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, nghiên cứu, phát triển và cung cấp sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng.
Luật cũng quy định thống nhất thời hạn cho giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng là 10 năm.
Luật An toàn thông tin mạng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.
Nguồn tin: www.pcworld.com.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn